Phân tích Hạnh phúc của một tang gia Kèm bài phân tích mẫu

Tài liệu hướng dẫn phân tích Hạnh phúc của một tang gia gồm những gợi ý chi tiết cách làm, lập dàn ý, sơ đồ tư duy cùng #1 bài văn hay phân tích nội dung trích đoạn Hạnh phúc của một tang gia trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.

Phân tích Hạnh phúc của một tang gia

Đề bài: Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia trong tác phẩm Số đỏ của Vũ trọng Phụng.

hạnh phúc của một tang gia

Phân tích đề bài

  • Yêu cầu của đề bài: phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.
  • Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.
  • Phương pháp lập luận chính: phân tích.

Hệ thống các luận điểm

  1. Luận điểm 1: Ý nghĩa nhan đề “Hạnh phúc của một tang gia“
  2. Luận điểm 2: Niềm hạnh phúc của các thành viên trong gia đình khi cụ tổ mất
  3. Luận điểm 3: Cảnh đám tang gương mẫu.

Lập dàn ý chi tiết

a) Mở bài

Giới thiệu vài nét về tác giả Vũ Trọng Phụng

  • Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939) là nhà văn xuất sắc trong nền văn học của Việt Nam nổi tiếng với các tác phẩm tiểu thuyết và truyện ngắn trào phúng.

Giới thiệu tác phẩm Số đỏ và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia

  • Số đỏ là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng nhằm châm biếm, đả kích những thói xấu xa, giả dối của xã hội thực dân, phong kiến nửa đầu thế kỉ XX.
  • Hạnh phúc của một tang gia là toàn bộ chương XV của tiểu thuyết Số đỏ, phê phán lối sống lệch lạc và đua đòi của một gia đình.

b) Thân bài

Khái quát về tác phẩm Số đỏ

Hoàn cảnh ra đời: Số đỏ ra đời năm 1936, năm đầu của Mặt trận dân chủ Đông Dương, không khí đấu tranh dân chủ sôi nổi. Chế độ kiểm duyệt sách báo khắt khe của chính quyền thực dân tạm thời được bãi bỏ. Bối cảnh ấy đã tạo điều kiện cho các nhà văn công khai, mạnh mẽ vạch trần thực chất thối nát, giả dối, bịp bợm của các phong trào Âu hóa, thể thao, vui vẻ trẻ trung… được bọn thống trị khuyến khích và lợi dụng đã từng lên cơn sốt vào những năm 30 của thế kỷ XX.

Ý nghĩa nhan đề “Hạnh phúc của một tang gia”

“Tang gia”: gia đình có người mất, có tang.

“Hạnh phúc”: cảm xúc khi gặp chuyện vui.

-> Nhan đề chứa đựng mâu thuẫn: Một bên là sự tang thương, mất mát đáng lẽ phải tràn ngập sự đau buồn, tiếc thương nhưng ở đây lại song hành với hạnh phúc, đây là cảm xúc đối lập hẳn với hoàn cảnh “tang gia”.

=> Nhan đề xuất hiện như một sự châm biếm, mỉa mai, dự báo một màn hài kịch sắp diễn ra với nhiều nghịch lí và những tiếng cười chua chát.

Niềm hạnh phúc của các thành viên trong gia đình khi cụ tổ mất

Niềm vui chung của cả gia đình

  • Cụ Tổ mất đi, di chúc được thực thi.
  • Ước nguyện của mọi người trong gia đình được thực hiện.

-> Gia đình tràn ngập niềm vui vì được chia tài sản.

=> Một gia đình bất hiếu.

Niềm vui của từng thành viên trong gia đình

Cụ cố Hồng

  • Được diễn trò già yếu trước mọi người.
  • Mơ màng nghĩ mình được mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc, mếu máo để người ta nghĩ “úi kìa con giai nhớn đã già thế kia kìa”.

-> Nhân vật điển hình cho sự ngu dốt và háo danh bề ngoài, không hề tiếc thương gì trước cái chết của chính người sinh ra mình.

Ông Văn Minh:

  • Thích thú vì cái chúc thư kia đã đi vào thời kì thực hành -> được chia tài sản
  • Được dịp quảng cáo, kiếm tiền

-> Người cháu bất hiếu, đầy dã tâm.

Bà Văn Minh:

  • Mừng rỡ vì được lăng xê bộ xô gai tân thời và những y phục táo tạo nhất của tiệm may Âu hóa.

-> Người cháu thực dụng, thiếu tình người.

Cô Tuyết:

  • Được dịp mặc y phục “ngây thơ” để chứng tỏ mình hãy còn trinh tiết

-> Người con gái lẳng lơ, muốn hư hỏng một cách có khoa học, tự hào chưa đánh mất cả chữ trinh.

Cậu Tú Tân:

  • Sướng điên người lên vì được dịp khoe tài chụp ảnh, được sử dụng cái máy ảnh đã lâu không có dịp dùng đến

-> Con người vô tâm, kém hiểu biết, đáng lên án.

Ông Phán mọc sừng :

  • Sung sướng vì không ngờ rằng “cái sừng” trên đầu mình lại có giá trị.
  • Mừng thầm vì được chia thêm tiền

-> Một kẻ trục lợi, vô lương tâm, không có nhân cách, vô liêm sỉ, chỉ coi trọng và vui mừng vì mình được thêm một khoản.

Niềm vui của những người ngoài gia đình

Xuân tóc đỏ: danh giá uy tín ngày càng cao vì nhờ hắn mà cụ Tổ chết.

Cảnh sát Min Đơ và Min Toa: “sung sướng cực điểm” vì có việc làm.

Bạn bè cụ cố Hồng: có dịp khoe khoang các loại râu ria cùng những huân huy chương một cách lố bịch, kệch cỡm.

Đám trai thanh gái lịch: có dịp hẹn hò tình tứ, “chim chuột nhau” -> sự giả tạo, thiếu văn hóa.

Sư cụ Tăng Phú thì “sung sướng vênh váo”

Hàng phố: đám ma đi đến đâu huyên náo đến đấy, cả phố nhốn nháo khoe đám ma to, thiên hạ chỉ chú ý vào những kiểu quần áo tang…

-> Cụ Tổ chết tuyệt nhiên không ai đau buồn, không một giọt nước mắt.

=> Bức tranh trào phúng chân thực mang đậm tính hài hước, mỉa mai, châm biếm và lên án sự suy đồi về đạo đức và tình người của con người trong xã hội thượng lưu phong kiến.

Cảnh đám tang gương mẫu

Không khí đám tang:

  • Hỗn loạn, nhốn nháo như hội rước
  • Tổ chức linh đình kết hợp ta, Tàu, Tây để khoe giàu một cách hợm hĩnh.

-> Đua đòi, chạy theo lối sống văn minh rởm.

Các nhân vật trong đám tang:

Phục trang:

  • Các bà, các cô thi nhau mặc đồ xô gai tân thời
  • Cô Tuyết mặc y phục ngây thơ bằng ren, hở nách

-> Đám đưa ma mà như một sàn diễn thời trang.

Xuân tóc đỏ lại được chào đón trịnh trọng vì đã có công khiến cụ Tổ chết

Cậu Tú Tân thể hiện trình độ chụp ảnh bằng cách nhảy lên những ngôi mộ khác.

Sư cụ Tăng Phú vênh váo vì sẽ có người nghĩ cụ có chiến công hiển hách “lật đổ Phật giáo”.

Đám con cháu là ê kíp đạo diễn, diễn viên, nhiếp ảnh tài ba.

“Đám cứ đi” và nam nữ cứ “chim nhau, cười tình với nhau”.

Cảnh hạ huyệt

Cậu Tú Tân thì dàn dựng việc chụp hình một cách giả dối và vô văn hóa

Cụ cố Hồng cũng ho, khóc, mếu, khạc…

Ông Phán thì oặt người, khóc ngất đi “Hứt, hứt, hứt” nhưng không quên diễn việc làm ăn bí mật với Xuân: dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ một cái giấy bạc năm đồng gấp làm tư.

=> Đó là một màn hài kịch thể hiện sự lố lăng, đồi bại, bất hiếu, bất nghĩa của xã hội thượng lưu trước 1945 thực chất là cặn bã của xã hội.

Đặc sắc nghệ thuật

  • Ngòi bút trào phúng bậc thầy
  • Xây dựng tình huống độc đáo
  • Phát hiện những chi tiết đối lập gây gắt cùng tồn tại trong một con người, sự vật, sự việc.
  • Thủ pháp cường điệu, nói ngược, nói mỉa,…
  • Nghệ thuật miêu tả nhân vật biến hóa, linh hoạt và sắc sảo đến từng chi tiết.

c) Kết bài

  1. Khái quát lại giá trị nội dung của đoạn trích.
  2. Nêu cảm nhận của em về đoạn trích.

Sơ đồ tư duy phân tích Hạnh phúc của một tang gia

Phân tích Hạnh phúc của một tang gia

Kiến thức mở rộng

 “Bằng ngòi bút trào phúng độc đáo, Số đỏ lên án gay gắt cái xã hội tư sản thành thị Việt Nam đang chạy theo lối sống văn minh rởm hết sức lố lăng đồi bại đương thời. Tác giả đã đả kích cay độc các phong trào “Âu hóa”, “thể thao”, “giải phóng nữ quyền” đang phát triển rầm rộ khi ấy, nhân danh “văn minh”, “tiến bộ”, “cải cách xã hội” mà thực chất chỉ là ăn chơi trụy lạc, làm tiền, chà đạp trắng trợn lên mọi nền nếp đạo đức truyền thống… Số đỏ tuy chỉ tập trung phê phán xã hội tư sản về phương diện đạo đức, sinh hoạt – đây là một hạn chế – song tác phẩm vẫn có màu sắc chính trị thời sự và có tính chiến đấu rõ rệt… Tuy nhiên, sự phản ánh hiện thực của Số đỏ có rộng song chưa thật sâu. Trong khi lật mặt bọn bịp bợm giả danh “bình dân”, ít nhiều nhà văn vẫn để lộ cái nhìn miệt thị đối với quần chúng lao động. Quan điểm sinh lý thô bạo – ảnh hưởng của học thuyết Phrơt – khi giải thích “cái dâm của loài người” và sự miêu tả có phần sống sượng đây đó, cũng hạn chế chiều sâu nhận thức và sức tố cáo của tác phẩm.”

(Từ điển văn học, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, tập II, 1984)

Bài văn hay phân tích Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng)

Số đỏ là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng trước những thói xấu xa, giả dối của xã hội thực dân, phong kiến nửa đầu thế kỉ XX. Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng, chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt gây ấn tượng là chương Hạnh phúc của một tang gia.

Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có tang, thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến chừng nào, ấy vậy mà lại hạnh phúc. Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại chân thực, hợp lí. Ở đám tang cụ Tổ, mọi người đều vui như Tết: con cái, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết… ai cũng thấy đây là một dịp may hiếm có để thoả mãn một nguyện vọng, một ý đồ nào đó. Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng người mang danh là thượng lưu, quý phái, văn minh, tân tiến nhưng thực chất lại là những cặn bã, quái thai của cái xã hội dở Tây dở ta buổi ấy.

Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công những tình huống điển hình để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết, phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột rà với cụ Tổ. Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, đứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu, họ mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Thay vào sự tiếc thương, cái chết của cụ đã đem đến cho họ niềm vui to lớn không che giấu nổi – một “hạnh phúc”: Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm ai cũng vui sướng thoả thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma… Tang gia ai cũng vui vẻ cả…

Cậu tú Tân, cháu nội cụ Tổ hào hứng, phấn khởi thật sự vì cậu có dịp trổ tài sử dụng cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Vợ Văn Minh (cháu dâu) mừng rỡ vì sẽ được mặc đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mấn trắng viền đen… để quảng cáo cho một kiểu đồ tang mới lạ của cửa hàng Âu hoá vừa mới chế ra.

Còn người con trai cả của cụ Tổ thì sung sướng vì một lí do khác lớn hơn. Cụ cố Hồng mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm, ngợi khen: úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa. Văn Minh (cháu nội), đã từng du học tận bên Tây bao năm, về nước không có lấy một mảnh bằng, chỉ nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài thì thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Riêng người cháu rể (Phán mọc sừng) lại khấp khởi, sướng rơn trong bụng vì đã được bố vợ nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và con rể thêm một số tiền vài nghìn đồng. Chính ông không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế!

Không khí của đám ma là không khí của một ngày hội. Đây cũng chính là mâu thuẫn trào phúng gây cười ra nước mắt xuyên suốt hoạt cảnh này. Đám ma rất to, to chưa từng thấy ở đất Hà Thành xưa nay. Có đủ cả kiệu bát cống, lợn quay… đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu, vài trăm người đưa đám nghiêm nghị, thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ, trong đủ thứ tiếng kèn huyên náo: kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tai, rộn rã của lốc bốc xoảng và bu-dích…

Đám ma cụ Tổ trở thành dịp may hiếm có để trưng bày và quảng cáo các mốt quần áo Âu hoá mới nhất của tiệm may vợ chồng Văn Minh – sản phẩm độc đáo của nhà thiết kế mĩ thuật Typn. Cô Tuyết cháu gái cụ Tổ với bộ y phục ngây thơ khá hở hang và nét mặt cố tạo ra một vẻ buồn lãng mạn, rất đúng mốt một nhà có đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ông khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động còn hơn nghe tiếng kèn… ai oán, não nùng. Bộ đồ tang đã được cách tân của vợ Văn Minh cũng làm cho mọi người phải xuýt xoa, trầm trồ…

Ngoài những thân nhân của người quá cố phải nói đến đám bạn bè, quan khách của tang chủ, đi đưa đám không phải để chia buồn mà là cốt khoe ngực đầy những huy chương như: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh…. trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loàn quàn… Đám phụ nữ quý phái, đám trai thanh gái lịch đang theo đuổi, học đòi phong trào Âu hoá, vừa đi đưa ma vừa cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau… Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những chuyện ấy bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma (!) Điều đó chứng tỏ họ hoàn toàn dửng dưng với người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và dối trá.

Người dân hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to đến nỗi những người trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố nhốn nháo cả lên khen đám ma to. Nhà văn lạnh lùng bình luận: Đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Thật là mỉa mai, chua chát! Đằng sau sự phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời đến mức lố lăng, là thói háo danh đến trơ trẽn của bọn người giàu sang, hãnh tiến và bao trùm lên tất cả là thói đạo đức giả, tự lừa mình và lừa người.

Song song với việc mô tả hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng không quên đi sâu thể hiện, phanh phui mặt trái của nó. Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp những bức biếm hoạ trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát ấy chỉ thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma – đó là tình người. Thiếu lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức loè loẹt, om sòm kia đều trở thành vô nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt trong đám ma giống nhau ở chỗ đều giả dối và vô đạo đức.

Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tổ lên tới đỉnh cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mấy trăm con người và gây ấn tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của báo Gõ mõ. Điều này khiến cho bà cố Hồng càng thêm sung sướng: Ấy, giả không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi. Còn cô Tuyết, người yêu của Xuân Tóc Đỏ cũng phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với hắn.

Mấy chi tiết đặc tả cảnh hạ huyệt càng mỉa mai, trào phúng. Vũ Trọng Phụng tả nó như một vở kịch mà bận tay dàn dựng của đạo diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn: cậu Tú Tân bắt từng người phải chống gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt… để cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng: ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hức! Hức! Hức. Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mặt mọi người. Thực ra, cụ Tổ chết ông ta rất mừng vì được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà cô vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông Phán dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ một cái giấy bạc năm đồng gấp làm tư… để trả công hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước họ hàng nhà vợ, nhờ đó mà ông ta có thêm được một món tiền lớn.

Qua chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc tài kể chuyện của mình. Bút pháp của Vũ Trọng Phụng giỏi ở chỗ phóng đại mà như không phóng đại, làm cho mọi việc đều như thật và hơn thật, ông chú ý đến các mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất, khai thác triệt để nhằm gây nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Cảnh đám ma hiện ra như một màn hài kịch sinh động, một bức biếm hoạ khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự xưng là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời đó đang phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại trước mắt mọi người.

Bài viết liên quan:

5/5 - (3 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *